TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ THANH HÓA Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 93/2022/HNGĐ Ngày: 30/8/2022
V/v:“Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Nga
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nguyễn Văn Quý
2. Ông Lê Cát Tưởng
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Hương - Thư ký TAND TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Đại diện VKSND TP.Thanh Hóa tham gia phiên tòa: Bà Trịnh Thị Thu
Lan - Kiểm sát viên
Ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 341/2022/ TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo “Quyết định đưa vụ án ra xét xử” số 156/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2022 và và “Quyết định thay đổi thành viên những người tiến hành tố tụng và thông báo thời gian mở lại phiên tòa” số 142 ngày 24/8/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đặng Thị K , sinh năm 1988
Địa chỉ: Phố TTr, phường QT, thành phố TH, tỉnh TH
Bị đơn: Anh Lê Bá D , sinh năm 1986
Địa chỉ: Phố TTr, phường QT, thành phố TH, tỉnh TH
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/6/2022, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị K trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Lê Bá D tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Thành (nay là phường Quảng Thành), TP.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 03/12/2010. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống và lối sống dẫn đến thường xuyên bất hòa; Anh D không quan tâm gia đình, ham chơi lô đề bài bạc làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình và tinh thần của vợ con. Gia đình đã động viên góp ý nhiều lần nhưng anh D vẫn chơi bời nợ nần. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể chung sống được nên chị đã về nhà mẹ đẻ sinh sống từ tháng 5/2022,
vợ chồng sống ly thân, việc ai người đó làm không quan tâm đến nhau, chấm dứt quan hệ về tình cảm và kinh tế.
Đến nay chị K xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho chị ly hôn anh Lê Bá D
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Lê Thái K , sinh ngày 21/6/2011 và Lê N , sinh ngày 26/12/2014, thời gian vợ chồng ly thân các con ở với bố. Chị K đề nghị Tòa án giải quyết cho chị nuôi Lê N , anh D nuôi Thái K, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn Lê Bá D : Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần thông báo, triệu tập song anh D không đến Tòa án làm bản tự khai vì lý do không đồng ý ly hôn. Ngày 20/7/2022 tại gia đình anh D Tòa án tiến hành lấy lời khai, anh D khai thống nhất với lời khai của chị K về thời gian, điều kiện kết hôn, về nguyên nhân và thực trạng mâu thuẫn vợ chồng, về thời gian ly thân. Anh D thừa nhận bản thân có chơi bời nợ nần ảnh hưởng đến gia đình, nhưng nay anh đã khắc phục xong và đã có công việc làm ổn định để chăm lo cho gia đình (Hiện anh làm thợ xây, công việc ổn định, thu nhập 400.000đ/ngày). Hơn nữa anh còn tình cảm với chị K và mong muốn vợ chồng đoàn tụ để chăm lo cho con cái nên anh không đồng ý ly hôn. Trường hợp chị K kiên quyết ly hôn thì Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật. Về con chung anh thống nhất có 02 con chung như chị K trình bày. Từ khi vợ chồng ly thân cả hai con ở với anh. Anh D đề nghị Tòa án giải quyết cho anh nuôi cả hai con chung vì không muốn các con xa nhau và các con đang ổn định việc học tập sinh sống, anh không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 20/7/2022 cháu Thái K và Lê N xin được ở với bố nếu bố mẹ ly hôn.
Ngày 20/7/2022 Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương (phường QT) địa phương xác nhận: Quá trình chung sống chị K Anh D có mâu thuẫn và đã ly thân; Chị K anh D có hai con chung lâu nay sống cùng anh D ; Về tài sản chung nợ chung của anh chị địa phương không rõ. Hiện anh D làm thợ xây. Yêu cầu của anh chị đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải các ngày 02/8/2022 và 08/8/2022 anh D vắng mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải được; chị K giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn anh D ; Về con chung do anh D yêu cầu được nuôi cả hai con chung và các con cũng xin được ở với bố nên chị đồng ý; Chị cấp dưỡng nuôi con cùng anh D mỗi cháu 1.000.000đ/tháng kể từ khi ly hôn đến khi con đủ 18 tuổi.
Ngày 12/8/2022, Tòa án nhân dân TP. Thanh Hóa có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đã được tống đạt hợp lệ cho chị K anh D . Tại phiên tòa ngày 24/8/2022, anh D có mặt và có ý kiến: Về hôn nhân anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng nêu chị K kiên quyết ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn; Về con chung anh kiên quyết xin được trực tiếp nuôi cả hai con chung, không
yêu cầu chị K cấp dưỡng; Tài sản chung nợ chung anh không yêu cầu giải quyết. Chị Đặng Thị K vắng mặt lần thứ nhất, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa, ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào 14 giờ 30 phút ngày 30/8/2022, “Quyết định hoãn phiên tòa” đã tống đạt hợp lệ cho chị K anh D .
Tại phiên tòa hôm nay, chị Đặng Thị K vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh Lê Bá D vắng mặt không có lý do.
Ý kiến của đại diện VKS: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và HĐXX, việc chấp hành pháp luật của chị K kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã tuân thủ đúng quy định, anh D chấp hành không đầy đủ quy định. Tại phiên tòa hôm nay, chị K vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt), anh D vắng mặt không có lý do, đề nghị HĐXX căn cứ Điều 227 - BLTTDS để xét xử vắng mặt chị K và anh D ; Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị HĐXX xử cho chị K ly hôn anh D ; Giao hai con chung Thái K và Lê N cho anh D nuôi dưỡng, chị K cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.000.000/tháng kể từ khi ly hôn đến khi con đủ 18 tuổi; Án phí: Chị K phải chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được kiểm tra, xem xét tại phiên toà; Kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Ý kiến của người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Chị Đặng Thị K khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn; Nơi cư trú của bị đơn Lê Bá D tại thành phố Thanh Hóa, do đó Tòa án nhân dân TP.Thanh Hóa thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 - Bộ luật TTDS.
Tại phiên tòa hôm nay chị K vắng mặt song đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh D vắng mặt mặc dù đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa. HĐXX căn cứ Điều 227 - BLTTDS để xét xử vắng mặt chị K anh D .
Về nội dung:
Về hôn nhân: Chị Đặng Thị K và anh Lê Bá D tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Thành (nay là phường Quảng Thành), TP.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 03/12/2010, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng do bất đồng về quan điểm sống và lối sống nên đã sống ly thân từ tháng 5/2022, chấm dứt quan hệ về tình cảm và kinh tế. Tòa án cũng đã nhiều lần tổ chức hòa giải nhưng chị K kiên quyết ly hôn, anh D không có mặt nên không tiến hành hòa giải được. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị K vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn anh D
Xét mâu thuẫn giữa chị K và anh D đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu ly hôn của chị K là có cơ sở và tự nguyện. HĐXX căn cứ Điều 56 Luật HNGĐ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị K
Về con chung: Chị K anh D có 02 con chung là Lê Thái K , sinh ngày 21/6/2011 và Lê N , sinh ngày 26/12/2014. Từ khi vợ chồng ly thân cả hai con ở với anh D . Nay anh D tha thiết đề nghị Tòa án giải quyết cho anh nuôi cả hai con chung, chị K cũng đồng ý để anh D trực tiếp nuôi cả hai con chung và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 1.000.000đ/tháng tính từ tháng 10/2022 đến khi con đủ 18 tuổi; Bản thân cháu K , cháu N cũng xin được ở với bố. Xét thấy, hiện tại cháu K cháu N đang sinh sống cùng anh D , sinh hoạt và học tập ổn định việc chị K thống nhất giao con cho anh D nuôi dưỡng và chị K cấp dưỡng nuôi con là đảm bảo tốt nhất quyền lợi và nguyện vọng của con, phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình nên HĐXX chấp nhận.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị K anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết HĐXX không xét.
Về án phí: Chị K là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo quy định tại Điều 6; Điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng: Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;
Điều 6; điểm a khoản 5, 6 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Về hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị K ly hôn anh Lê Bá D .
Về con chung: Giao hai cháu Lê Thái K , sinh ngày 21/6/2011 và Lê N , sinh ngày 26/12/2014 là con chung của chị K anh D cho anh Lê Bá D trực tiếp nuôi dưỡng; Chị Đặng Thị K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh D mỗi cháu 1.000.000đ (Một triệu đồng) một tháng tính từ tháng 10/2022 đến khi con đủ 18 tuổi.
Chị Đặng Thị K có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đặng Thị K và anh Lê Bá D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị Đặng Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con chung nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0002011 ngày 17/6/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa. Chị K còn phải nộp 300.000đ án phí.
Về quyền kháng cáo: Chị Đặng Thị K và anh Lê Bá D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hịên theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
TAND tỉnh Thanh Hoá;
VKSND TP. Thanh Hóa; Đã ký
Chi cục THADS TP. Thanh Hóa;
UBND phường Quảng Thành, TPTH;
Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị Nga
Bản án số 93/2022/HNGĐ ngày 30/08/2022 của TAND TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 93/2022/HNGĐ
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 30/08/2022
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Đặng Thị Khuyên - Lê Bá Dũng (Ly hôn)