TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B TỈNH ĐIỆN BIÊN Bản án số: 127/2024/HSST. Ngày: 22/05/2024. | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc |
NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM | |
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B TỈNH ĐIỆN BIÊN | |
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: |
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lường Văn Lương.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Lò Văn Chương;
2. Ông Tòng Văn Hưng.
Thư ký phiên toà: Bà Lò Thị Hòa – Thư ký Toà án nhân dân huyện Đ B.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên tham gia phiên toà: Bà Hoàng Khánh Linh - Kiểm sát viên.
Ngày 22/5/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 128/2024/TLST - HS ngày 25/4/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2024/QĐXXST - HS, ngày 09/05/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn T, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1994, tại Điện Biên. Nơi cư trú: Bản M, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn Hương (Đã chết) và bà: Lường Thị Hinh, sinh năm 1964; vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; tiền sự: Không;
Nhân thân: Chưa bị xử lý hành chính, chưa bị Tòa án xét xử.
Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 24/01/2024 cho đến nay "Có mặt".
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 24/01/2024, bị cáo đi bộ từ nhà đến khu vực đường cuối bản Chiềng Tông, xã Thanh Yên, huyện Đ B với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và mua được 01 gói Methamphetamine với giá tiền là
200.000 đồng của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 35 tuổi (không biết tên và địa chỉ). Sau đó bị cáo cầm gói ma túy ở tay trái rồi đi bộ về nhà. Hồi 14 giờ 45 phút cùng ngày, khi bị cáo đang đi bộ thuộc khu vực bản Chiềng Tông, xã Thanh Yên, huyện Đ B thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy
Công an huyện Đ B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 01 gói ni lon màu hồng bên trong có 10 viên Methamphetamine do bị cáo đang cầm ở tay trái.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 24/01/2024 đã xác định: Số viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,9 gam;
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản kết luận giám định số: 339/KL-KTHS ngày 30/01/2024, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là Methamphetamine;
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 74/CT-VKSHĐB ngày 24/4/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 08 tháng đến 02 năm tù. Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,77 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định và 01 mảnh ni lon màu hồng, cùng 02 phong bì niêm phong vật chứng. Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và Luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 24/01/2024 bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, khi bị cáo đang trên đường về thì bị bắt quả tang 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,9 gam và 01 mảnh ni lon màu hồng. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều
249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.
[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.
Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần chấp nhận.
[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Đ B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo mua của người đàn ông dân tộc Thái, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.
[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
[8]. Vật chứng: 0,9 gam Methamphetamine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,77 gam) và 01 mảnh ni lon màu hồng, cùng 02 phong bì niêm phong vật chứng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/BLHS.
Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 01 năm 08 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/01/2024.
Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
Về vật chứng: Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,9 gam Methamphetamine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,77 gam) và 01 mảnh ni lon màu hồng, cùng 02 phong bì niêm phong vật chứng.
(Vật chứng đã được công an huyện Đ B chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B ngày 24/4/2024).
Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333/BLTTHS; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lường Văn Lương |
HỘI THẨM NHÂN DÂN CHỦ TỌA HỘI THẨM NHÂN DÂN
Lò Văn Chương Lường Văn Lương Tòng Văn Hưng
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lường Văn Lương |
HỘI THẨM NHÂN DÂN CHỦ TỌA HỘI THẨM NHÂN DÂN
Quàng Văn Minh Lường Văn Lương Vũ Văn Tám
Bản án số 127/2024/HSST ngày 22/05/2024 của TAND huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
- Số bản án: 127/2024/HSST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 22/05/2024
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Ngày 24/01/2024 bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, khi bị cáo đang trên đường về thì bị bắt quả tang 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,9 gam và 01 mảnh ni lon màu hồng