Hệ thống pháp luật

che giấu tội phạm

"che giấu tội phạm" được hiểu như sau:

Tạo điều kiện cho người phạm tội trốn tránh trách nhiệm sau khi phạm tội, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra tội phạm cũng như người phạm tội.Che giấu tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Hành vi che giấu có thể là chứa chấp người phạm tội, tạo điều kiện cho họ lẩn trốn, xóa dấu vết của tội phạm, hủy tang vật... hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Do tính nguy hiểm cho xã hội như vậy, luật hình sự Việt Nam trong các văn bản pháp luật trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985 cũng đã quy định tội che giấu tội phạm. Tuy nhiên, các văn bản này mới chỉ quy định hành vi che giấu đối với từng nhóm tội cụ thể mà chưa quy định tội che giấu tội phạm nói chung. Ví dụ: Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967 quy định tội che giấu phần tử phản cách mạng, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa năm 1970 quy định tội bao che cho kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa... Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tội che giấu tội phạm (nói chung) đã được quy định thành một tội danh riêng. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội này tiếp tục được quy định tại chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Theo quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự năm 1999, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi che giấu tội phạm phụ thuộc chủ yếu vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được che giấu. Do vậy, điều luật này đã liệt kê các tội phạm mà hành vi che giấu những tội này có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và bị coi là tội phạm. Cách quy định này tuy cụ thể nhưng cũng có hạn chế là quá dài, thiếu tính khái quát. Hình phạt được quy định cho tội này trong trường hợp không có tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn có thể tới 5 năm tù; còn trong trường hợp có tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì hình phạt có thể tới 7 năm tù.Hành vi che giấu tội phạm trên đây sẽ không cấu thành tội che giấu tội phạm mà là đồng phạm với người phạm tội được che giấu nếu người che giấu đã có sự hứa hẹn trước đó (trước khi tội phạm được thực hiện xong) là sẽ che giấu sau khi tội phạm được thực hiện xong.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, che giấu tội phạm được quy định tại Điều 18 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.