Hệ thống pháp luật

chế độ sở hữu toàn dân

"chế độ sở hữu toàn dân" được hiểu như sau:

Chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật xác định chủ thể, khách thể, nội dung, phương thức thực hiện quyền sở hữu của toàn dân.Sở hữu toàn dân là hình thức cao nhất của sở hữu xã hội chủ nghĩa, trong đó các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và tài sản khác thuộc về nhà nước - người đại diện chính thức của nhân dân. Chế độ sở hữu toàn dân cùng với chế độ sở hữu tập thể hợp thành chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa và là nền tảng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.Ở Việt Nam, sở hữu toàn dân có chủ thể duy nhất là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, được gọi là sở hữu nhà nước. Khách thể của sở hữu toàn dân bao gồm: đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời; phần vốn và đất do nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước (Điều 17 Hiến pháp năm 1992).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chế độ sở hữu toàn dân được quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.