chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai
"chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai" được hiểu như sau:
Tổng hợp các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ về sở hữu đất đai, quy định và bảo vệ quyền lợi của nhà nước với tính cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai, đồng thời mở rộng và xác lập các quyền năng cụ thể của người sử dụng đất.Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được xây dựng và phát triển từ Hiến pháp năm 1980, được kế thừa và phát triển tại Hiến pháp năm 1992. Các Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993 đều quy định về sở hữu toàn dân đối với đất đai. Luật đất đai năm 2003 lần đầu tiên quy định Nhà nước trong vai trò người đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai, có quyền của người chủ sở hữu đại diện. Từ đó, nhà nước có quyền định đoạt đất đai thông qua việc quyết định mục đích sử dụng đất từ việc phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, quyết định việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất. Ngoài ra, nhà nước trong vai trò người đại diện chủ sở hữu có quyền điều tiết các lợi ích từ đất đai thông qua chính sách tài chính về đất đai.Cùng với việc xác lập rõ vai trò của Nhà nước, pháp luật đất đai tiếp tục mở rộng quyền cho người sử dụng đất, dù đó là tổ chức hay hộ gia đình, cá nhân trong nước, là nhà đầu tư nước ngoài hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Việc bảo hộ đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất chính là khía cạnh thứ hai trong việc xây dựng và hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở Việt Nam, phản ánh một nét đặc trưng tiêu biểu của chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, sở hữu đất đai được quy định tại Điều 4 Luật đất đai năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013:” Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.