Hệ thống pháp luật

chất lượng hàng hóa

"chất lượng hàng hóa" được hiểu như sau:

Toàn bộ những thuộc tính của hàng hóa nói lên bản chất cùng như đặc điểm, tính cách của hàng hóa có giá trị riêng, được xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc so sánh được, phù hợp với những điều kiện kỹ thuật hiện có, quyết định khả năng thỏa mãn nhu cầu nhất định của con người.Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, nhận thức về những thuộc tính của một vật ngày càng sâu sắc hơn, quan niệm về các vật được mở rộng, chất lượng hàng hóa ngày càng được nâng cao.Theo Điều 423 Bộ luật dân sự năm 1995 và tiếp tục được quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự năm 2005, chất lượng của hàng hóa là vật mua bán do các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. Trong trường hợp hàng hóa đã được đăng ký về chất lượng thì chất lượng hàng hóa được đánh giá theo các tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc chất lượng của hàng hóa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì việc đánh giá chất lượng hàng hóa được xác định theo các tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Tuy nhiên, trong trường hợp trong giao kết hợp đồng không ghi rõ thỏa thuận của các bên về chất lượng hàng hóa và pháp luật cũng không có quy định thì chất lượng hàng hóa được xác định theo mục đích sử dụng và chất lượng trung bình của vật cùng loại.Bèn bán có nghĩa vụ giao cho bên mua hàng hóa đúng phẩm chất phù hợp với hợp đồng đã ký, trong trường hợp hợp đồng không có nội dung về chất lượng thì hàng hóa được gì phải là thứ hàng hóa đáp ứng mục đích sử dụng thông thường đối với thứ hàng hóa đó; nếu sau khi nhận hàng mà bên mua phát hiện khuyết tật làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị sử dụng của một vật đã mua thì phải báo ngay khi phát hiện, như quy định của Bộ luật dân sự và có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa, đổi vật có khuyết tật, giảm giá và bồi thường thiệt hại, nếu không có thỏa thuận khác.Bên bán phải bảo đảm vật bán phù hợp với sự mô tả trên bao bì, nhãn hiệu hàng hóa hoặc phù hợp với mẫu mà bên mua đã lựa chọn.Bên bán hàng không chịu trách nhiệm về khuyết tật của vật trong các trường hợp sau đây: 1) Khuyết tật mà bên mua đã biết hoặc phải biết khi nhận hàng; 2) Vật bán là vật đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ; 3) Khuyết tật của vật do lỗi của bên mua gây ra. Nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định, bên bán, theo quy định của Bộ luật dân sự, có nghĩa vụ bảo hành đối với vật mua bán trong một thời gian gọi là thời hạn bảo hành.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chất lượng của hàng hóa được quy định tại Điều 432 Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.