biện pháp ngăn chặn
"biện pháp ngăn chặn" được hiểu như sau:
Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cân trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.Biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, những biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam được quy định trong Luật số 103-SL/L.005 ngày 20.5.1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Luật này không quy định các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn, còn các trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp được quy định cụ thể trong sắc luật số 002-SLt ngày 18.6.1957. Trong một thời gian dài, áp dụng các văn bản pháp luật trên đã giúp cho việc đấu tranh chống tội phạm đạt kết quả. Tuy chưa quy định thật đầy đủ các biện pháp ngăn chặn nhưng các văn bản pháp luật trên vẫn là cơ sở đầu tiên để xây dựng và hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988.Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn gồm: để kịp thời ngăn chặn tội phạm; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội; khi cần để bảo đảm thi hành án (Điều 79).Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải do người có thẩm quyền quyết định (trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã) và bảo đảm đúng các thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Khi tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án trong phạm vi trách nhiệm của minh phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác (Xt. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn).Thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; bảo đảm dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.