Hệ thống pháp luật

biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

"biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự" được hiểu như sau:

Biện pháp thi hành án dùng quyền lực Nhà nước bắt phải thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án.Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được Cơ quan thi hành án áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự bảo đảm cho việc thi hành bản án, quyết định của tòa án. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được quy định tại Chương IV Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.Theo Điều 37 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự gồm có: khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ; buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; cấm hoặc buộc người phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất định.Tùy từng trường hợp, để thi hành án, chấp hành viên quyết định áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp Cần áp dụng ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án. Chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự bằng văn bản.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được quy định tại Điều 71 Luật thi hành án dân sự năm 2008 do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 14 tháng 11 năm 2008.