Hệ thống pháp luật

bí mật thư tín

"bí mật thư tín" được hiểu như sau:

Không tiết lộ nội dung của thư từ cho người không phải là chủ thể nhận thông tin.Khái niệm bí mật thư tín chỉ được sử dụng cho trường hợp người gửi và người nhận đều là những chủ thể xác định: thư tín chỉ cần được giữ bí mật một khi được coi là một phần của cuộc sống riêng tư, tức là cuộc sống của một người được xác định. Bởi vậy, thư tín được gửi cho công chúng không cần được giữ bí mật.Việc bảo vệ bí mật thư tín được pháp luật Việt Nam ghi nhận rất sớm, thể hiện trong các quy định tại Luật số 103-SL/L.005 ngày 20.5.1957. Hiện nay, bí mật thư tín được bảo đảm bằng các biện pháp chế tài được ghi nhận trong luật dân sự và luật hình sự. Trong luật dân sự, chế tài đối với người xâm phạm bí mật thư tín được thực hiện theo chế độ chung về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Trong luật hình sự, chế tài đối với người xâm phạm bí mật thư tín được ghi nhận tại Bộ luật hình sự.Người có quyền mở thư tín là chủ thể nhận thông tin hoặc người được chủ thể nhận thông tin cho phép hoặc ủy quyền để thực hiện việc đó. Trong những trường hợp được pháp luật quy định và có lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, một người không phải là chủ thể nhận thông tin, nhưng được pháp luật cho phép, cũng có quyền mở thư tín. Nếu người mở thư tín không phải là một trong những người này thì bí mật thư tín bị vi phạm.